Hình Quang Trung

Hình Quang Trung

Quản trị 18/03/2022 Lượt xem: 2672

Quản trị 18/03/2022 Lượt xem: 2672

Thần tốc bắc tiến, Đại phá quân Thanh (1789)

Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng[80][81]. Để có thêm quân đánh Thanh, vua Quang Trung thi hành chính sách cưỡng bách tòng quân. Theo tác giả Hoa Bằng, tất cả nam giới từ 12, 13 đến 60 tuổi đều phải đăng ký vào sổ đinh nam[82]. Theo thư của giáo sĩ La Barette, tất cả nam từ 15 tuổi trở lên đều phải đi lính, người già và phụ nữ phải đi sửa cầu đường[83]. Theo Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, cứ 3 suất đinh thì chọn lấy 1 người đi lính. Trong 10 ngày tuyển quân, Quang Trung đã có thêm khoảng mấy vạn quân, nâng tổng quân số lên tới 10 vạn[84]. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, số quân cũ và mới của Quang Trung là 10 vạn, được tổ chức thành 5 đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.[85]

Các giáo sỹ phương Tây ghi rằng quân của Quang Trung "tiến nhanh như vũ bão... từ Thanh Hoá ra Ninh Bình chỉ mất có một ngày, không quản đường xa khó nhọc đã làm chết nhiều ngựa voi của ông, trong khi người khác phải mất ba bốn ngày". Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long. Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.

Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,[86] có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.

Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.[87] Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.[88][89]

Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung tiến quân vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.

Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ[90]:

Tấn công Đàng Ngoài, lật đổ Chúa Trịnh, phá bỏ chia cắt ranh giới Đàng Trong - Đàng Ngoài, thống nhất đất nước về cơ bản.

Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm qua đời, thế tử Trịnh Cán được lập làm Điện Đô Vương. Họ Trịnh vốn phát xuất từ Thanh Hóa, chỉ dùng binh lính từ hai xứ Thanh Hóa và Nghệ An, gọi là ưu binh. Bấy giờ triều đình không kiểm soát được những kiêu binh này nữa, để họ tự làm loạn cùng với người con lớn của Trịnh Sâm[g] là Trịnh Tông làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam Vương (1782-1786). Từ đó ưu binh Thanh Nghệ cậy công, làm ngang, không có kỷ cương gì.

Một tướng người Nghệ An theo phe quận Huy là Tham quân Nguyễn Hữu Chỉnh vốn hào hoa, can đảm, nhiều mưu trí không hợp tác với Trịnh Tông. Do trước đây Chỉnh làm thuộc hạ cho quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, từng làm việc giao thiệp với Tây Sơn, đến nay đi đường biển vào Nam theo Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc yêu tài và cho làm đô đốc. Nguyễn Hữu Chỉnh muốn trừ kiêu binh, ngày đêm bày mưu cho Tây Sơn.[45][46][47]

Về phía Trịnh, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc (1775), để lại Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân. Bắc Hà ngày một suy yếu, khi bình định xong đất Gia Định, Nguyễn Huệ về thành Quy Nhơn, có ý muốn đánh Phú Xuân. Nguyễn Nhạc ngăn lại nói rằng:Con ong có nọc, đừng đến cho nó đốt. Vừa lúc ấy, Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như ngầm sang Tây Sơn để dò thám, người này vốn quen Nguyễn Hữu Chỉnh, nói với Chỉnh đất Thuận Hóa có thể đánh được. Chỉnh nói lại với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân, Võ Văn Nhậm làm tả quân, Nguyễn Lữ đốc thủy quân, theo Nguyễn Huệ quản suất để đánh Phú Xuân.[48]

Nguyễn Hữu Chỉnh nhận được tin xứ Thanh Nghệ và tứ trấn Bắc Hà đói to, dân chẳng ưa gì lính, nếu lấy được đất Thuận Hóa thì việc bình định thiên hạ không khó. Chỉnh tâu với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc đồng ý, sai Nguyễn Huệ làm chủ tướng tiến đánh Phú Xuân. Thành Phú Xuân được Chúa Trịnh cho ba ngàn quân đóng đồn và ba vạn quân thay phiên canh phòng cẩn mật. Viên quan trấn nhậm là Phạm Ngô Cầu, viên quan phó là Hoàng Đình Thể.

Nguyễn Hữu Chỉnh vốn quen biết Hoàng Đình Thể, liền viết một bức thư gửi cho phó tướng Hoàng Đình Thể, nhưng lại vờ gửi cho chủ tướng quận Tạo-Phạm Ngô Cầu. Phạm Ngô Cầu đâm ra nghi ngờ Hoàng Đình Thể, sau đó Hoàng Đình Thể đánh nhau với Tây Sơn, tên đạn hết, quận Tạo không cho thêm, Thể tức mình lùi voi vào để nói chuyện phải trái, tức thì đội hình rối loạn, bị giết cùng với hai người con trai, Phạm Ngô Cầu đầu hàng, Nguyễn Huệ sai giải về Quy Nhơn chém đầu. Trong khi đó thì Nguyễn Lữ đem quân thủy đánh xong các đồn từ sông Gianh trở vào (xem thêm bài về nhà Tây Sơn và Nguyễn Lữ).[47][49]

Chính sách cai trị thời hậu chiến

Nguyễn Huệ tuy đã thụ phong Nhà Thanh, nhưng bên trong tự coi mình là Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông Nhà Lê làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lấy thành Nghệ An là đất giữa nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền tải vận đá, gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào lấy đá ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành Thăng Long là Bắc Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. Mỗi trấn đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, võ thì đặt chức phân suất để coi việc binh lương.[91]

Quang Trung chia vùng cai quản thuộc đất Nhà Lê cũ thành các xứ (trấn) như sau:[92]

Bộ máy hành chính thời Quang Trung gồm: Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại Tư đồ, Đại Tư khấu, Đại Tư mã, Đại Tư không, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ Úy, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung Thư lệnh, Phụng Chính, Thị Trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Lục Bộ Thượng thư, Tả - Hữu đồng nghi, Tả - Hữu phụng nghi, Thị Lang, Tư vụ, Hàn Lâm...[93][94]

Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn.[94] Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý.[94] Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng.[93] Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.[93] Trong các xã, thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng. Hàng tổng thì đặt Tổng trưởng (như chức Chánh Tổng về sau) để giữ việc hành chính trong một tổng.[93] ông cũng cho soạn một bộ luật tên là "Hình luật thư", nhưng chưa xong thì ông đột ngột mất nên mãi không hoàn thành.[95]

Để phát triển quốc gia, Quang Trung rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ Nhà Lê. Ông ban "Chiếu cầu hiền" có đoạn:Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?... Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình - sức một người không thể đảm đương. Các cựu thần nhà Lê cũ, tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Lượng, Bùi Dương Lịch,... đã ra giúp Nhà Tây Sơn. Danh sĩ Nguyễn Thiếp sau nhiều lần từ chối, cuối cùng cũng nhận lời xuống núi giúp vua Quang Trung.

Năm 1792, Quang Trung ra chiếu chỉ về việc dịch sách chữ Hán sang chữ Nôm. Quang Trung chủ trương bỏ Hán ngữ như là ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của quốc gia. Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Việt và được viết trong các văn kiện hành chính bằng hệ thống chữ Nôm.[96] Quang Trung quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ Nôm, và đến đệ tam trường các sĩ tử phải làm thơ phú bằng chữ nôm. Ông còn chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập "Sùng chính viện" để dịch kinh sách từ Hán sang Nôm.[96]

Theo sách Tây Sơn lược thuật, ông chọn một quan văn "5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách".[96] Ngoài ra, Quang Trung quan tâm đưa việc học đến tận thôn xã. Trong "Chiếu lập học" ông lệnh cho các xã::[96] "Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò". Lần đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam, trường học được phổ biến xuống tận cấp xã.

Về nội dung giáo dục, Quang Trung rất chú ý chỉnh đốn lại chế độ học tập và thi cử. Ông muốn gạt bỏ lối thi cử nặng về học thuộc lòng sáo rỗng, công thức của các thời trước, thay vào đó là lối học thiết thực hơn nhằm đào tạo những người có năng lực hoạt động thực sự, theo đúng tinh thần "kết hợp học với hành" như đề nghị của Nguyễn Thiếp: "Theo điều học biết mà làm, hoạ may nhân tài mới có thể thành tựu, nhà nước nhờ đó mà được vững yên"

Chủ trương dùng chữ Nôm, bỏ lối thi cử khuôn sáo nói lên hoài bão rất lớn của Quang Trung muốn cả nước thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào văn tự của nước ngoài, chống chính sách đồng hoá của các triều đình phong kiến phương Bắc, cũng như thái độ coi khinh ngôn ngữ dân tộc của các giai cấp phong kiến trong nước. Nhưng chính sách này làm cho một số sĩ phu Nho giáo rất tức tối, vì họ cho rằng chữ Hán mới đích thực là tinh túy của sự học tập. Theo Trần Trọng Kim nhận xét trong Việt Nam sử lược, những chính sách này đều có tác dụng tốt, nhất là việc thay chữ Hán bằng chữ Nôm. nhưng Thời bấy giờ nhiều người không hiểu rõ cái ý nghĩa sâu xa ấy, cho là vua Tây Sơn dùng hà chính mà ức hiếp nhân dân.[97]

Sau này, khi Nguyễn Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn và lên ngôi, ông đã xóa bỏ việc dùng chữ Nôm của Quang Trung và khôi phục lại lối thi cử, viết văn bản bằng chữ Hán.

Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi:[98] dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về Công giáo, các giáo sĩ được tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ.[98] Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở huyện cấp trên[99], đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.[98] Theo Trần Trọng Kim, những việc cải cách ấy rất có nghĩa lý, nhưng vì thủa ấy có nhiều sự chiến tranh, vả lại Quang Trung cũng không làm vua được bao lâu thì đã băng hà, cho nên thành ra không có công hiệu gì cả.[97]

Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua phân phối đất đai cho những nông dân nghèo, thúc đẩy thủ công nghiệp từng bị cấm trước kia.

Về thủ công nghiệp, Quang Trung chú trọng mở các xưởng đúc tiền, đúc vũ khí, đóng thuyền chiến, sản xuất những mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu của đất nước. Những xưởng đóng thuyền chiến phục vụ chiến tranh thời Quang Trung đã đóng được thuyền lớn mang nhiều đại bác, có thể chở được voi[100].

Về nông nghiệp, Quang Trung có một chính sách thuế đơn giản với thuế ruộng là chính: ruộng chia ra làm ba hạng để đánh thuế nhất đẳng điền (150 bát thóc), nhị đẳng điền (80 bát thóc), tam đẳng điền (50 bát thóc). Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng. Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng Các loại thuế khác như thuế điệu, thuế nhân đinh được giảm để giảm bớt gánh nặng của dân chúng và phòng ngừa tham nhũng.[101] Ngoài ra, triều đình còn ban lệnh các địa phương phải đảm bảo giải quyết hết diện tích ruộng đất bỏ hoang, nếu hết thời hạn vẫn bỏ hoang không khai khẩn thì ruộng công sẽ chiếu theo ngạch thuế thu gấp đôi, nếu là ruộng tư thì thu thành ruộng công[102]. Quang Trung cũng ra lệnh những người lang thang, ngụ cư ở những nơi nhất thiết phải trở về nguyên quán làm ăn, chỉ trừ những người đã sinh cơ lập nghiệp ở xã khác được từ ba đời trở lên. Những xã nào chấp chứa những người trốn tránh, vi phạm pháp lệnh trên thì bản thân người trốn tránh và cả xã trưởng sở tại cũng bị trừng phạt. Bọn lưu manh, những người trốn tránh lao động vào ẩn nấp trong các chùa cũng phải hoàn tục trở về quê hương làm ăn.

Nhờ chính sách này, sản xuất nông nghiệp bước đầu được khôi phục. Đến vụ mùa năm 1791, mùa màng thu hoạch tốt, một nửa số địa phương trong nước khôi phục được cảnh như thời thái bình trước đây[103]. Bài phú Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng phản ánh tình hình đó với những câu: "Tới Mậu Thân (1788), từ rỡ vẽ tường vân, sông núi khắp nhờ công đảng địch; qua Canh Tuất (1790), lại tưới cơn thời vụ, cỏ cây đều gội đức chiêm nhu"

Vua Quang Trung có tư tưởng tiến bộ, vua không đi theo con đường "trọng nông ức thương" mà chủ trương đề cao thương nghiệp và mở rộng quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với nước ngoài.[101] Trong lần gặp với Nguyễn Thiếp tại Nghệ An cuối năm 1788, Quang Trung đã bày tỏ hoài bão của mình là muốn xây dựng một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển, đảm bảo cung cấp mọi nhu cầu thiết yếu cho nhân dân.

Sau ngày lên ngôi hoàng đế và quản lý cả khu vực Bắc Bộ, Quang Trung bãi bỏ chính sách ức thương mà chính quyền Lê-Trịnh trước đây áp dụng để tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Do chính sách nâng đỡ của Quang Trung, tình hình công thương nghiệp bị đình trệ hàng thế kỉ đã được phục hồi và dần dần đã có những biểu hiện phát triển rõ rệt. Kinh tế công thương nghiệp càng được phục hồi và phát triển mạnh mẽ, nhất là trung tâm kinh tế Thăng Long. Nguyễn Huy Lượng ghi lại trong bài phú Tụng Tây Hồ như sau: "Ở đây cảnh hoang tàn của những năm cuối thời Lê mạt, buổi ấy cũng góp phần tan hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khổ đã biến mất, để nhường chỗ những hoạt động công thương nghiệp nhộn nhịp", "Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát..., rập rền cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách chen buồm như bươm bướm..."

Đối tác ngoại thương lớn nhất khi đó vẫn như truyền thống là Trung Quốc[104]. Năm 1790, ông cử người thương thuyết với Nhà Thanh để mở một thương điếm tại Nam Ninh (Quảng Tây) mua bán hàng hoá giữa hai nước.[101] Ông khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt.[101]

Sau này, khi Nguyễn Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn và lên ngôi, ông ta đã xóa bỏ chính sách khuyến khích ngoại thương rất tiến bộ của Quang Trung, thay vào đó là chính sách ngăn cấm giao thương buôn bán với nước ngoài. Sau khi Nhà Tây Sơn sụp đổ, các thương nhân nước ngoài đến buôn bán tại Việt Nam vẫn có sự so sánh về chính sách thương mại của Quang Trung với Nhà Nguyễn. Thương nhân người Anh là Crafurd khi đến Việt Nam năm 1822, dẫn lại lời các Hoa kiều từng sống ở Huế dưới thời Tây Sơn cho rằng: anh em Tây Sơn cai trị ôn hòa và công bằng hơn vị vua hiện tại (Minh Mạng) hay người cha (Gia Long)[3].

Sau khi lên ngôi, Quang Trung cho thi hành những chính sách thuế khoá đơn giản và bãi bỏ nhiều thứ thuế phức tạp trước đây và giảm thuế cho người dân. Về thuế ruộng được chia làm hai loại, gồm ruộng công và ruộng tư với mức thuế khác nhau.

Về thuế nhân đinh, Quang Trung cũng giảm nhẹ hơn thời các chúa Trịnh. Quang Trung chỉ giữ lại thuế đinh, bỏ hẳn thuế điệu, mỗi suất đinh hàng năm nộp chừng 1 quan 2 tiền (thời Chúa Trịnh thì mỗi suất đinh nộp 1 quan 2 tiền và 4 bát gạo, lại nộp thêm 6 tiền thuế điệu). Năm 1789, Quang Trung ra lệnh bãi bỏ thuế điệu cho nhân dân từ sông Gianh trở ra (tức khu vực Đàng Ngoài) nhằm mục đích "bớt thuế, thương dân".

Về thuế thổ sản và thuế công thương nghiệp, Quang Trung cũng bãi bỏ một số mức thuế nặng nề trước đây để tạo điều kiện sản xuất và kinh doanh dễ dàng cho giới công thương. Riêng việc thông thương với Trung Quốc qua vùng biên giới thì được miễn thuế hoàn toàn.

Chính sách thuế khóa và lao dịch của Nguyễn Ánh sau này nặng hơn rất nhiều so với thời vua Quang Trung. Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng Gia Long đánh thuế quá nặng lên dân chúng: "Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba". Chính vì việc tăng thuế khóa quá nặng so với thời Tây Sơn nên dân chúng rất bất bình, góp phần tạo nên rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Nguyễn và tâm lý hoài niệm triều Tây Sơn của người dân Việt Nam trong thế kỷ 19.

Năm 1790, ông cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu).[105] Người dân được phân 4 hạng theo lứa tuổi:[105] 9–17 tuổi là hạng "vị cập cách"; 18–55 tuổi là hạng "tráng"; 55–60 tuổi là hạng "lão"; 60 tuổi trở lên là hạng "lão nhiêu".[99] Ông còn cho làm thẻ bài "Thiên hạ đại tín" bằng gỗ có khắc họ tên,[106] quê quán của người mang không phân biệt giàu sang nghèo hèn.[105][106] Chính sách này khiến cho nhân gian nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng, về sau người kế vị ông đã từ bỏ chính sách tín bài này.[107]