4- Dân số vùng Tây Nguyên VùngTây Nguyên gồm 5 tỉnh có số dân vào khoảng 5.282.000 người theo tài liệu năm 2011. Cư dân thuộc các dân tộc: Gia Rai, Bana, Ê dê, M'nong , Cơ Ho, Mạ, Nùng, Xơ đang Tày, Thái, Mường, Dao, Gié Triêng Hoa, Chu ru, Brâu, Rơ Măm. Hrê, Kinh . Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau.
4- Dân số vùng Tây Nguyên VùngTây Nguyên gồm 5 tỉnh có số dân vào khoảng 5.282.000 người theo tài liệu năm 2011. Cư dân thuộc các dân tộc: Gia Rai, Bana, Ê dê, M'nong , Cơ Ho, Mạ, Nùng, Xơ đang Tày, Thái, Mường, Dao, Gié Triêng Hoa, Chu ru, Brâu, Rơ Măm. Hrê, Kinh . Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau.
Nhận diện, chọn lọc và bảo tồn đúng hướng
Trước hết, muốn bảo tồn và phát huy hệ thống di sản văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, chúng tôi thiết nghĩ phải nhận diện một cách khách quan và đầy đủ các giá trị cần được lưu giữ và trao truyền. Trên cơ sở nhận diện mới chọn lọc được những tinh hoa văn hóa để bảo tồn, phát huy và xây dựng những giá trị văn hóa mới phục vụ sự phát triển bền vững.
Theo đó, khi tìm hiểu, nghiên cứu, nhận diện một vùng văn hóa hoặc một nền văn hóa nào đó, cần dựa vào hai bộ công cụ quan trọng: Hệ tọa độ ba chiều (chủ thể văn hóa, không gian văn hóa, thời gian văn hóa) và các đặc trưng văn hóa (tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử). Sự nghiên cứu chuyên sâu này giúp cho việc nhận diện được bản sắc văn hóa tộc người. Từ đó, tránh được việc nói đến văn hóa Tây Nguyên không nói bản sắc chung chung mà phải là bản sắc văn hóa tộc người. Tuy nhiên, nhận diện và khái quát được bản sắc văn hóa tộc người là vấn đề hết sức khó khăn nhưng phải bắt đầu từ những dấu hiệu bao gồm: Giá trị tinh thần, tồn tại tương đối lâu dài, có tác dụng chi phối các đặc điểm khác, có khả năng khu biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác…
Mặt khác, chúng ta cũng cần nhận thức rằng, bất kỳ nền văn hóa nào cũng trải qua quá trình giao lưu, hội nhập. Vì vậy cần đặt những yếu tố truyền thống trên cơ sở hồi cố, truy nguyên và mô tả trong xã hội hiện đại để thấy rõ sự biến đổi có thể theo chiều hướng tiếp biến hoặc theo chiều hướng mai một bản sắc. Nếu theo cách nhìn này, chúng ta có thể luận giải về một số phương diện cơ bản của văn hóa truyền thống của các tộc người Tây Nguyên trong xã hội đương đại, như sau: Tín ngưỡng đa thần của đồng bào gắn liền với chuỗi nghi lễ nông nghiệp; từ đó hình thành một hệ thống lễ hội: Từ lễ cúng Thần Đất, Thần Núi... đến cầu mùa, mừng lúa mới, bỏ mả...
Hiện nay, điều kiện tự nhiên bị phá vỡ, tập quán mưu sinh thay đổi cùng với sự chi phối của các tôn giáo, các lễ hội truyền thống hầu như vắng bóng. Thay vào đó là các “lễ hội mới” do chính quyền tổ chức. Ở đó, vẫn có nghi lễ cầu thần, hiến tế, diễn tấu cồng chiêng nhưng ý nghĩa và giá trị tinh thần đã được chuyển dịch. Ðiều hành xã hội bằng luật tục trong thiết chế cổ truyền là một biểu hiện độc đáo của đồng bào các dân tộc bản địa Tây Nguyên; khi chưa có luật pháp, công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội chính là luật tục (tập quán pháp). Ðó là một hệ thống văn bản truyền miệng bằng văn vần chế định tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội và được cả cộng đồng triệt để tuân thủ.
Hiện nay, nhiều nội dung của luật tục mang tính hủ tục và có độ vênh, thậm chí trái với luật pháp nhưng vẫn có nhiều nội dung tích cực cần được khai thác. Nghệ thuật diễn xướng và nhạc cụ cổ truyền của các tộc người có nhiều biến đổi. Đặc biệt, nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng cổ truyền vốn được tiến hành rất nghiêm ngặt từ các bản tấu, nghệ nhân, không gian, hoàn cảnh đến chức năng cơ bản là tế lễ nhưng nay những quy chuẩn mang giá trị truyền thống đã bị mai một nhiều, đặc biệt là mất đi không gian thiêng vốn dĩ. Hát kể sử thi, dân ca, dân nhạc, dân vũ vẫn được duy trì nhưng thiếu linh hồn vì tâm lý, ý thức cộng đồng và không gian diễn xướng thay đổi. Kiến trúc dân gian đặc sắc của nhiều tộc người chính là nhà dài. Tuy nhiên hiện nay loại hình kiến trúc này đã dần vắng bóng và thay vào đó là những thiết chế văn hóa hiện đại, mà nhà văn hóa cộng đồng là một thí dụ. Ðiều đáng quan tâm là những thiết chế văn hóa đó lại xa rời truyền thống văn hóa tộc người từ vị trí, kiến trúc, trang trí đến công năng…
Trong điều kiện hiện nay, để góp phần bảo tồn và phát huy hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống Tây Nguyên, theo chúng tôi, cần giải quyết một số vấn đề quan trọng như sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cần gắn với việc nghiên cứu kinh tế - xã hội đương đại. Thứ hai, khi chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đời sống xã hội, cần tiếp tục có sự tư vấn của các nhà khoa học. Thứ ba, tránh triển khai các đề án mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu khoa học. Thứ tư, cần bảo tồn có chọn lọc, trọng tâm, trọng điểm; bảo tồn phải gắn liền với khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống để phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, tức là bảo tồn động, bảo tồn trong sự phát triển. Thứ năm, các cơ quan Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng, quản lý và huy động các nguồn lực phục vụ cho việc nghiên cứu và phục dựng các giá trị cổ truyền, tránh những sự can thiệp phi chuyên môn…
“Phục hồi” niềm tự hào và ngôn ngữ tộc người
Trong thời gian qua, chúng tôi từng tham gia hai đề tài nghiên cứu khoa học: “Phát huy mặt tích cực của luật tục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng để xây dựng thôn buôn văn hóa” và “Nghiên cứu thực trạng Nghề thủ công của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đề xuất giải pháp phát triển”. Kết quả nghiên cứu của hai đề tài trên đã cung cấp cho các cấp chính quyền những luận cứ khoa học quan trọng nhằm phát huy mặt tích cực của luật tục trong xã hội hiện đại và phát triển nghề thủ công, nhưng trên hết vẫn là mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Cơ Ho, Mạ, Chu Ru và một số dân tộc bản địa khác.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra thực trạng đáng lo ngại: Luật tục vẫn còn nhiều mặt tích cực trong giải quyết các quan hệ dân sự như duy trì văn hóa truyền thống, tranh chấp, từ hôn… Xử lý bằng luật tục có kèm theo hình phạt nhưng luôn hướng đến sự hòa giải và đoàn kết. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, mặt tích cực đó khó có thể phát huy vì: Thiết chế cổ truyền đã bị phá vỡ, vị thế thủ lĩnh tinh thần và vai trò phán xử của già làng đã mờ nhạt; những câu luật tục bằng văn vần truyền miệng đã trở nên khó hiểu và xa lạ đối với thế hệ trẻ; luật pháp Nhà nước đã được chế định và chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào chủ yếu là dệt thổ cẩm, ủ rượu cần, đan lát, rèn, đúc nhẫn bạc, làm gốm... Sản phẩm của các nghề này chứa một hàm lượng văn hóa tộc người rất cao nhưng hiện nay đang tồn tại lay lắt, thậm chí có một số nghề đã mất hẳn. Sự mai một đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do sản phẩm của nghề thủ công của đồng bào chưa phải là hàng hóa (chỉ để đổi chác trong buôn làng), nguồn nguyên liệu khan hiếm, kỹ thuật chế tác giản đơn, ý thức học nghề và truyền nghề không cao, sự cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp…
Từ các kết quả khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi cũng đã xác định một số nguyên nhân dẫn đến sự mai một, phai nhạt các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có hệ thống tri thức bản địa quý giá. Một trong những nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là sự chi phối của quy luật phát triển của lịch sử - văn hóa; sự thay đổi của môi trường tự nhiên, xã hội; vấn đề bản lĩnh văn hóa trong việc xử lý các yếu tố ngoại lai và trách nhiệm của các cơ quan quản lý bởi cách làm hời hợt và áp đặt. Sự biến đổi cũng dẫn đến ba nguy cơ sau: Làm biến mất bản sắc văn hóa tộc người; con người Tây Nguyên sẽ mất điểm tựa văn hóa, từ đó dẫn đến xa rời cộng đồng, mất phương hướng tự điều chỉnh và tự giáo dục; phá vỡ tính ổn định và phát triển bền vững của xã hội…
Chúng ta cũng nhận thức rằng, tiếng nói là biểu hiện sinh động và mạnh mẽ nhất của bản sắc văn hóa tộc người, nhưng hiện nay, ở cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, hiện tượng quên dần tiếng mẹ đẻ đang diễn ra khá phổ biến ở lớp trẻ. Biểu hiện rõ nhất là vốn từ tiếng mẹ đẻ của họ nghèo nàn nên thường phải mượn từ tiếng Việt thay thế. Theo ghi nhận của chúng tôi, còn rất ít bạn trẻ nhớ và sử dụng được những từ thuộc về văn hóa cổ truyền. Nguyên nhân có thể do môi trường, điều kiện giao tiếp và thực hành tiếng mẹ đẻ của thế hệ trẻ ngày càng ít đi, từ đó, họ hình thành tâm lý ngại dùng. Ðiều này càng làm cho họ phai nhạt niềm tự hào dân tộc, dần mất đi tâm hồn và tính cách dân tộc, xa rời những giá trị cơ bản của văn hóa tộc người. Trong quá trình tham gia công việc giảng dạy tiếng đồng bào Cơ Ho, Mạ cho cán bộ, công chức người Kinh đang công tác trong vùng dân tộc, chúng tôi cũng khích lệ họ học để giao tiếp với đồng bào, yêu thêm con người và văn hóa của đồng bào. Đồng thời, đó cũng là cách tạo thêm cảm hứng để đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là những người trẻ, biết trân trọng hơn ngôn ngữ của chính họ và cố gắng bảo tồn và phát huy.
Cũng đã có những tín hiệu vui, thời gian gần đây, chuyện hơi có vẻ “ngược dòng” là từng có một vài sinh viên người dân tộc thiểu số đề nghị chúng tôi dạy thêm cho họ ngôn ngữ mẹ đẻ. Có người thấy “lạ”, nhưng chúng tôi cho đó là hiện tượng tất yếu của một lớp người trẻ biết yêu và tha thiết bảo tồn ngôn ngữ của tổ tiên họ. Bởi, như trên đã nói, thế hệ trẻ đang bị mất dần không gian giao tiếp và điều kiện thực hành nên họ lúng túng, khô cứng và thiếu linh hồn khi dùng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó, đại đa số người trẻ không biết viết, không biết đọc, tức là mù chữ ngôn ngữ tộc người nên quá trình quên tiếng mẹ đẻ càng diễn ra một cách nhanh chóng hơn. Câu chuyện có vẻ “ngược dòng” này lại phản ánh rất đúng thực trạng hiện nay trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ hiện tượng này, chúng tôi thiết nghĩ, có lẽ, phải bắt đầu sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền bằng việc thúc đẩy bảo tồn và phát huy ngôn ngữ các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Tiếng nói của đồng bào vọng âm từ quá khứ, kết nối bao thế hệ, sẽ là những thanh âm quan trọng nhất cất lên niềm tự hào tộc người. Đó là niềm tự hào chính đáng, rất đáng trân trọng và cần được bảo vệ…
Đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt
Sự thực lịch sử, hai tiếng “đồng bào” thiêng liêng đã thành cốt cách và niềm tự hào trong văn hoá dân tộc Việt Nam. Hoàn toàn không phải như luận điệu bôi nhọ rằng “việc gọi các sắc tộc Tây Nguyên bằng từ “đồng bào” không che giấu được toan tính chính trị”, đả kích thành “đây là cách áp đặt văn hoá và mị dân”!
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tình cảm đặc biệt. Cách đây 77 năm, trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku, tỉnh Gia Lai, ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Ngày 30/11/1968, trong Điện gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên, Bác khen ngợi: “Quân và dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua diệt giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Người căn dặn: “Đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”.
Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển
Kế thừa giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chủ trương nhất quán của Đảng ta là phát huy, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đây là luận điểm quan trọng, xuyên suốt, thể hiện tầm nhìn chiến lược.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển... Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Khu vực Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Do vậy, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên được xác định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Các chính sách phát triển kinh tế, xã hội được cụ thể hoá tại địa phương nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số.
Những năm qua, tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk triển khai thực hiện Cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững”; tỉnh Lâm Đồng ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TU, ngày 8/10/2018 về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030; tỉnh Kon Tum ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 16/2/2022 về bảo tồn và phát huy giá trị nghề truyền thống của các dân tộc thiểu số tại chỗ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế các tỉnh Tây Nguyên ở mức khá, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Giai đoạn 2015 - 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của tỉnh Đắk Lắk là 9,13%/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2,87%/năm; tỷ lệ này ở tỉnh Kon Tum lần lượt là 9,7% và 4,05%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của tỉnh Gia Lai là 7,93%/năm, tỷ lệ hộ nghèo từ 19,71% (năm 2015) giảm còn dưới 4,5% (năm 2020), tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ 40,1% giảm còn dưới 6,25%. Tại tỉnh Đắk Nông, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 8,02%/năm, tỷ lệ hộ nghèo (năm 2020) giảm 12,28% so với năm 2016; tỉnh Lâm Đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng 8,0%/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, toàn tỉnh hiện còn 1,75%.
Các địa phương chủ động ban hành và triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn như chương trình hành động thực hiện công tác dân tộc; chính sách đầu tư phát triển bền vững bon, buôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng đề án về nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn sản xuất, kinh doanh; triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Những thập niên gần đây, tôn giáo du nhập và phát triển mạnh trong các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Các giá trị văn hóa, đạo đức có những tác động tích cực, làm phong phú đời sống văn hóa ở Tây Nguyên. Các tôn giáo tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, khôi phục không gian văn hóa truyền thống, bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết của đồng bào Tây Nguyên.
Những giá trị văn hóa tôn giáo được một bộ phận đồng bào ở Tây Nguyên tiếp nhận và thực hành trong cuộc sống, từ đó góp phần đẩy lùi những hủ tục, tập quán lạc hậu. Cùng với quá trình mở rộng ảnh hưởng, các tổ chức tôn giáo cũng từng bước hội nhập, tiếp nhận trở lại những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc.
Xu thế hội nhập văn hóa dân tộc đã mang lại cho tôn giáo ở Tây Nguyên một diện mạo riêng, góp phần bảo tồn, gìn giữ giá trị văn hóa Tây Nguyên, làm phong phú văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, đời sống tôn giáo ở Tây Nguyên cũng có những tác động bị các thế lực thù địch lợi dụng gây biến động phức tạp về chính trị, xã hội. Vì thế, việc thực hiện hiệu quả chính sách tôn giáo, dân tộc ở Tây Nguyên góp phần khơi dậy và nâng cao ý thức đoàn kết của đồng bào, từ đó làm thất bại âm mưu chia rẽ, kích động của các thế lực thù địch.
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ những thành tựu nổi bật của các tỉnh Tây Nguyên, trong đó quy mô kinh tế của vùng tăng nhanh, năm 2020 gấp hơn 14 lần năm 2002 và 3,1 lần năm 2010.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2002 - 2020 đạt gần 8%/năm, tốc độ tăng trưởng của các khu vực kinh tế đều cao nhất so với các vùng. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 48 triệu đồng, gấp 10,6 lần năm 2002. Giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát huy, một số di tích văn hóa lịch sử được tu bổ, tôn tạo…
Nghị quyết cũng nêu rõ những hạn chế, tồn tại, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững, có xu hướng chậm lại; thu nhập bình quân đầu người tuy cải thiện song vẫn ở mức thấp; giảm nghèo chưa bền vững… Nghị quyết đề ra mục tiêu, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 7 - 7,5%.
Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 130 triệu đồng, tương đương 5.000 USD. Xây dựng nền văn hóa Tây Nguyên tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, tôn trọng các giá trị văn hóa khác biệt giữa các dân tộc, coi đây là động lực, nền tảng cho phát triển và hội nhập quốc tế của vùng. Ưu tiên bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số…
Lan tỏa về sức mạnh đoàn kết, chung sức đồng lòng
Không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt qua các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội mà trong các thời kỳ cách mạng, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đều dành thời gian đến thăm, kiểm tra thực tế và động viên bà con Tây Nguyên chăm lo sản xuất, ổn định đời sống.
Trong dịp kỷ niệm 88 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk. Tổng Bí thư chia sẻ niềm vui mừng, phấn khởi về thăm và dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc với bà con các dân tộc xã Dur Kmăl, vùng đất anh hùng, có truyền thống đấu tranh cách mạng lâu đời.
Tổng Bí thư mong muốn bà con các dân tộc ở Dur Kmăl, Krông Ana nói riêng cũng như đồng bào Tây Nguyên nói chung tiếp tục triển khai có hiệu quả các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; khẳng định Trung ương luôn tạo điều kiện để các địa phương xây dựng phát triển, kể cả cung cấp nguồn lực vật chất, kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học kỹ thuật…
Làm việc với lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk, Tổng Bí thư ghi nhận những thành quả đạt được và lưu ý, cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống dân sinh, đồng bào dân tộc thiểu số, cả những đồng bào các tỉnh miền núi phía Bắc đến đây sinh sống… “Những kết quả đạt được cần phát huy mạnh mẽ, không được chủ quan… Có những đánh giá tổng kết sâu sắc để đề ra những chương trình chiến lược nhằm xây dựng tỉnh Đắk Lắk thành trung tâm về kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội của vùng Tây Nguyên” – Tổng Bí thư nêu rõ.
Trước đó, trong chuyến thăm Gia Lai vào tháng 4/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp xuống thăm cơ sở, gặp gỡ, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của bà con. Tổng Bí thư đến thăm nhân dân xã Ayun, nơi có gần 100% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Tổng Bí thư vào thăm gia đình thương binh Đinh Phi, hộ gia đình chính sách có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở làng Tung Ke 2, xã Ayun. Trong chuyến thăm này, nhà báo Lê Trí Dũng, phóng viên ảnh TTXVN đã ghi lại những bức ảnh chân thực, xúc động về người lãnh đạo cao nhất của Đảng giản dị ngồi trên bậc cửa của căn nhà lợp mái tôn, trò chuyện, tặng quà và ân cần thăm hỏi cuộc sống của thương binh Đinh Phi.
“Ngồi đối diện, người thương binh dân tộc thiểu số với ánh mắt tươi vui như muốn gửi trọn niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên với Đảng, thể hiện lòng Đảng, lòng dân gắn bó, mãi mãi đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã lựa chọn. Những hình ảnh chân thực, giản dị đó có sức lan tỏa về sức mạnh đoàn kết, đồng lòng và sẽ còn mãi với thời gian” – nhà báo Lê Trí Dũng chia sẻ.
Từ chủ trương, đường lối, các quyết sách quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội đến những hình ảnh chân thực, sinh động thể hiện tình cảm, sự quan tâm, gắn bó sâu sắc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước với bà con các dân tộc Tây Nguyên cũng như niềm tin yêu của bà con với Đảng, Nhà nước, với các đồng chí lãnh đạo. Hiện thực đó bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực xấu, vu cáo Đảng, Nhà nước “bỏ mặc đồng bào”, “phân biệt đối xử”, “đẩy vào đường cùng, buộc phải vùng lên”…
Do đó, chúng ta cần nâng cao nhận thức, nhận diện để tẩy chay, đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá của kẻ xấu, để đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đoàn kết, xây dựng cuộc sống ấm no ngay trên buôn làng mình, như lời Bác Hồ dạy năm xưa: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”.
Sau hàng ngàn năm phát triển, con số khoảng 10 triệu người thậm chí còn ít hơn một số dân tộc thiểu số khác đến vài lần. Vậy tại sao với sự thông minh và tài năng của mình, dân số của người Do Thái lại không tăng lên?
Trải qua 2000 năm tồn tại và phát triển, tổng dân số của người Do Thái chỉ 10 triệu người.
Không giống với các quốc gia khác thực hiện chiến lược mở cửa và xâm chiếm thuộc địa, người Do Thái đi theo con đường tự khép kín. Để duy trì tôn giáo và tập quán sinh hoạt của mình, họ từ chối kết hôn và hòa nhập với các dân tộc khác.
Điều này khiến việc mở rộng quy mô dân số của người Do Thái bị hạn chế.
Bị các dân tộc bên ngoài bài trừ
Trong lịch sử từng xuất hiện phong trào bài trừ người Do Thái, họ bị xua đuổi, không có nhà riêng. Vào thời điểm đó, dựa vào việc kinh doanh để kiếm sống, nhưng các doanh nhân Do Thái nổi tiếng là xảo quyệt và tàn nhẫn.
Ở nhiều nước châu Âu, họ bị coi là một tộc người thấp kém. Dưới sự miệt thị này, không có quốc gia nào nguyện ý dung hợp với người Do Thái.
Người Do Thái vừa là dân tộc kiệt xuất nhất nhưng cũng là dân tộc đáng thương nhất, họ bị giết hại và hành hạ liên tục trong hàng trăm năm. Hiện chưa có số liệu thống kê chính xác số người chết từ các cuộc tàn sát người do Do Thái ở các quốc gia.
Quá nhiều người bị giết khiến số lượng người Do Thái giảm mạnh, trong khi khả năng sinh sản không theo kịp nên dân số không thể tăng trưởng hiệu quả.
Hiện người Do Thái chỉ còn khoảng vài triệu người sinh sống chủ yếu ở Israel và Ả Rập.
Viện Đào tạo quốc tế, tiền thân là khoa Đào tạo quốc tế, là đơn vị trực thuộc trường Đại học Thương mại.
Số lượng và quy mô các chương trình liên kết đào tạo quốc tế đang được triển khai tại Viện Đào tạo quốc tế không ngừng được mở rộng ở cả bậc đại học và sau đại học, đặc biệt là các chương trình liên kết đào tạo quốc tế bằng tiếng Anh. Các đối tác liên kết của trường Đại học Thương mại đều là các trường đại học có uy tín của Cộng hòa Pháp, Áo, Anh, Canada, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, ...