Chính sách an sinh xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa của mọi quốc gia.Thực hiện chính sách an sinh xã hội là biện pháp để các nhà nước bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, hạn chế khoảng cách bất bình đẳng trong xã hội. Việt Nam là một nước nghèo, hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề, thiên tai xảy ra thường xuyên gây thiệt hại lớn, vì thế các đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội tương đối lớn. Trong mọi thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định chính sách an sinh xã hội có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Trong giai đoạn vừa qua, nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã được triển khai có hiệu quả, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, các chính sách an sinh xã hội của nước ta vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp, đồng bộ, ổn định và lâu dài.
Chính sách an sinh xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa của mọi quốc gia.Thực hiện chính sách an sinh xã hội là biện pháp để các nhà nước bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, hạn chế khoảng cách bất bình đẳng trong xã hội. Việt Nam là một nước nghèo, hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề, thiên tai xảy ra thường xuyên gây thiệt hại lớn, vì thế các đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội tương đối lớn. Trong mọi thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định chính sách an sinh xã hội có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Trong giai đoạn vừa qua, nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã được triển khai có hiệu quả, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, các chính sách an sinh xã hội của nước ta vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp, đồng bộ, ổn định và lâu dài.
Theo Điều 6 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 quy định thì nhà nước có các chính sách đối với bảo hiểm xã hội như sau:
- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng bao gồm trợ cấp hưu trí xã hội, bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung để hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
- Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; có chính sách hỗ trợ về tín dụng cho người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà bị mất việc làm.
- Ngân sách nhà nước bảo đảm các chế độ của trợ cấp hưu trí xã hội và một số chế độ khác theo quy định của Luật này.
- Bảo hộ, bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội.
- Hỗ trợ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
- Khuyến khích các địa phương tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, kết hợp huy động các nguồn lực xã hội hỗ trợ thêm tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
- Hoàn thiện pháp luật và chính sách về bảo hiểm xã hội; phát triển hệ thống tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch và hiệu quả; ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, giao dịch điện tử và yêu cầu quản lý về bảo hiểm xã hội.
- Khuyến khích tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung.
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và biện pháp công cộng nhằm bảo vệ và hỗ trợ các thành viên trong xã hội khi họ gặp phải những khó khăn về kinh tế và xã hội. Điều này bao gồm việc đảm bảo thu nhập và các điều kiện sống cơ bản cho những người gặp rủi ro như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già, và tử vong.
- Vai trò và ý nghĩa của an sinh xã hội:
+ Bảo vệ quyền lợi cơ bản: Đảm bảo rằng mọi người đều có quyền được sống trong điều kiện an toàn và có thu nhập tối thiểu để duy trì cuộc sống.
+ Giảm thiểu rủi ro xã hội: Giúp giảm bớt các tác động tiêu cực của những biến cố xã hội và kinh tế.
+ Thúc đẩy sự đoàn kết xã hội: Tạo ra một mạng lưới hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng, thể hiện tinh thần nhân đạo và đoàn kết.
+ Phát triển kinh tế và xã hội: Góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
- Một số ví dụ về các chính sách an sinh xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp, và các dịch vụ công như giáo dục và y tế.
Chính sách an sinh xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là một phần quan trọng của hệ thống an sinh xã hội, nhằm bảo vệ người lao động và gia đình họ trước các rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, thất nghiệp, thai sản, và tuổi già.
Thông tin mang tính chất tham khảo.
An sinh xã hội là gì? Ví dụ về an sinh xã hội? Chính sách an sinh xã hội có bao gồm bảo hiểm xã hội không? (Hình từ Internet)
Theo Điều 42 Luật Thi đua, Khen thưởng 2022 quy định:
Như vậy để được Huân chương Lao động hạng Nhất ngoài có nhiều đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật thì người lao động cần chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước; là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Với việc mở rộng ra toàn bộ nhóm chính sách xã hội cho mọi đối tượng, Việt Nam hướng tới mục tiêu nằm trong nhóm nước có chỉ số phát triển con người cao trên thế giới.
Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang đảm bảo quyền an sinh
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, qua đó đã thể hiện ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài hoà hơn, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Nhận thức của hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Các chính sách xã hội không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và công bằng.
Sau 10 năm, chính sách ưu đãi, tôn vinh người có công với cách mạng được đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt. Đối tượng người có công với cách mạng được mở rộng với chế độ và chính sách ưu đãi phù hợp. Hiện có trên 1,2 triệu người có công và thân nhân đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng; 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình trên địa bàn. Việc bảo đảm an sinh xã hội chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh của công dân. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng hằng năm và đạt 3,3 triệu người năm 2022.
Trong 3 năm phòng, chống dịch Covid-19 đã hỗ trợ với số tiền trên 120.000 tỷ đồng và trên 200.000 tấn gạo hỗ trợ cho trên 68 triệu lượt người dân, người lao động gặp khó khăn. Đặc biệt, Nhà nước đã dành khoảng 20% tổng chi ngân sách hàng năm cho chính sách xã hội.
Công tác giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo từ gần 60% vào năm 1986 đã giảm xuống còn dưới 3% vào năm 2022. GDP bình quân đầu người tăng từ 86 USD năm 1986 lên 4.110 USD năm 2022.
Diện bao phủ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp cũng không ngừng được mở rộng. Năm 2022, tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội đạt 38,08% và bảo hiểm thất nghiệp đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi; tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ngày càng tăng, đến nay đạt 1,46 triệu người.
Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân ngày càng tốt hơn. Về giáo dục-y tế, trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020. Năm 2022, có 92% người dân tham gia bảo hiểm y tế; 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ... Về nhà ở, đến năm 2020, đã hỗ trợ chỗ ở cho 648.000 hộ nghèo nông thôn, 323.000 căn nhà cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Đến năm 2021, 90% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Về tiếp cận thông tin, năm 2016, 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% các xã có đài truyền thanh...
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của các chính sách xã hội còn thấp; kết quả giảm nghèo có nơi, có lúc chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao, phân hoá giàu - nghèo có xu hướng gia tăng; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị thiên tai; thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chuyển biến chưa rõ nét; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Việc thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp còn nhiều khó khăn.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội
Với dự báo tình hình thế giới thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Trong nước, nền kinh tế tiếp tục chịu "tác động kép" từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập bên trong. Do đó, bối cảnh mới và thực tiễn quản lý phát triển xã hội đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện, xây dựng chính sách an sinh xã hội toàn diện hơn, đa tầng hơn, hiện đại hơn, bao trùm hơn và bền vững hơn, bảo đảm an sinh, an ninh, an dân.
Ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nghị quyết số 42-NQ/TW đã đưa ra 4 quan điểm vừa có tính kế thừa, phát huy, vừa có tính đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trong đó, nghị quyết tiếp tục khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng về nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định rõ mục tiêu tổng quát đến năm 2030, xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin.
Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2030, bảo đảm 100% người có công và gia đình người có công với cách mạng được chăm lo toàn diện cả vật chất và tinh thần, có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tỉ lệ thất nghiệp chung dưới 3%, tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%; tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%; 60% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội và 45% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; 100% hộ gia đình chăm sóc trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, người cao tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định; bảo đảm mức sống tối thiểu cho người có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp xã hội cho hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, tỉ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt 99,5%, cấp trung học cơ sở tối thiểu đạt 95%, cấp trung học phổ thông và tương đương tối thiểu đạt 75%; Bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia; tuổi thọ trung bình của người dân khoảng 75 tuổi, số năm sống khoẻ đạt tối thiểu 68 năm; chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao trong khu vực; trên 95% dân số được quản lý sức khoẻ; tỉ lệ tiêm chủng mở rộng đạt 95%; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi dưới 15%; cơ bản chấm dứt các dịch bệnh AIDS, lao và loại trừ sốt rét. Xây dựng được ít nhất một triệu căn hộ nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; xoá bỏ hoàn toàn tình trạng nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu.
Tầm nhìn đến năm 2045, hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới.
Để bảo đảm thực hiện các quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 42-NQ/TW đưa ra 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu gồm: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính sách xã hội; Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về chính sách xã hội; Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động; Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau; Nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội; Đẩy mạnh hợp tác và tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội./.